QC 1
Thứ 6, ngày 19/04/2024 | Hotline: 0889.066.066

Chất lượng tín dụng các ngân hàng niêm yết năm 2018 như thế nào?

Bảng xếp hạng về chất lượng tín dụng năm 2018 ghi nhận nhiều cái tên nổi bật trong đó một điểm sáng nổi bật là ACB…

Theo đó, ACB trở thành điểm sáng với tỷ lệ nợ xấu thấp nhất trong toàn hệ thống các ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu tại Sacombank, SHB, NCB và VPBank vẫn cao trong khi tỷ lệ bao nợ xấu khiêm tốn.

Dự phòng của Vietcombank “bao” nợ xấu nhiều nhất

Tỷ lệ dự phòng rủi ro bao nợ xấu tính bằng giá trị dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng nợ xấu phản ánh khả năng xử lý nợ xấu của ngân hàng nhờ hi sinh lợi nhuận quá khứ để có nguồn dự phòng nhằm bù đắp cho khoản vốn có khả năng không thu hồi được trong tương lai.

VCB và ACB tiếp tục đứng đầu hệ thống xét về năng lực xử lý nợ xấu, với tỷ lệ trích lập dự phòng cao tới 150 – 160% so nợ xấu. Với mức trích lập này, trong trường hợp tệ nhất là 100% nợ xấu đều không thu hồi được, 2 ngân hàng này vẫn còn lại phần 50 – 60% để hoàn nhập dự phòng.

MBB, TPBank và VietinBank là những cái tên xếp hạng cao về năng lực xử lý nợ xấu, mức bao nợ xấu quanh100% với số dự phòng đã trích vừa bằng mức tổn thất nếu toàn bộ nợ xấu không thể thu hồi. Techcombank, BIDV, HDBank thể hiện khả năng xử lý nợ xấu đáng kể với tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu xấp xỉ 70 – 90%.

Sacombank, NCB, SHB, Eximbank, VPBank lại có mức dự phòng bao nợ xấu thấp nhất ngành ~45 – 65%, khả năng chống đỡ yếu có thể khiến ngân hàng dễ bị tổn thương khi xảy ra những món nợ xấu lớn vượt quá khả năng xử lý của quỹ dự phòng.

Tỷ lệ bao nợ xấu của ngân hàng hợp nhất đạt 46% nhưng riêng ngân hàng mẹ đạt gần 53%. Do có nhiều khoản vay tín chấp, VPBank phân loại nợ xấu khá thận trọng. Trong năm 2018, tỷ lệ bao nợ xấu của FE Credit giảm từ 47,5% xuống 36,1%.

Tỷ trọng lãi phải thu/tổng tài sản

Trong quá trình kinh doanh, ngân hàng luôn có những món cho vay mà chưa đến kỳ hạn thu lãi tại ngày lập BCTC, do đó việc tồn tại “Lãi phải thu chưa thu được” ở một mức độ nhỏ là việc bình thường trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên khi khoản lãi phải thu quá lớn sẽ đặt ra dấu hỏi về chất lượng tín dụng và sự minh bạch trong việc phân loại nợ.

Bởi có khả năng ngân hàng cố tình phân loại nợ xấu (khó thu lãi) thành nợ nhóm 1 (được ghi nhận lãi), từ đó ghi tăng thu nhập lãi đồng thời giảm nợ xấu, giảm được chi phí dự phòng, duy trì được lợi nhuận sổ sách tốt hơn thực tế. Một ngân hàng giấu nợ xấu theo cách này sẽ gây hại đơn hại kép khi khoản nợ chính thức “lộ xấu”, khi đó ngân hàng vừa phải thoái thu lãi, vừa phải tăng chi phí dự phòng, khiến lợi nhuận giảm mạnh.

Lãi phải thu gồm thu từ Định chế tài chính, từ cho vay khách hàng, từ chứng khoán đầu tư và hoạt động phái sinh. Lãi phải thu từ cho vay khách hàng/ Dư nợ cho vay khách hàng (hoặc tỷ lệ Lãi phải thu/ Tài sản sinh lãi) là những tiêu chí nên sử dụng tỷ lệ xem xét chất lượng tín dụng nhưng hầu hết ngân hàng không báo cáo riêng những khoản mục này. Xét tỷ lệ lãi, phí phải thu/ Tổng tài sản để có con số ước lượng, 8/13 ngân hàng ít bị chậm thu lãi, có tỷ lệ trên dưới 1%.

Mạnh tay xử lý nợ, ACB trở thành quán quân tỷ lệ nợ xấu thấp

Sau nhiều năm mạnh tay trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu phát sinh từ giai đoạn trước, đến nay ACB đã thu quả ngọt với tỷ lệ nợ xấu và nợ nhóm 2 năm 2018 lần lượt 0,73% và 0,17%, thấp nhất nhóm ngân hàng niêm yết. Đồng thời, liên tục 5 năm gần đây 2014 – 2018, ACB đều giữ được tỷ lệ nợ xấu thấp hơn VCB. So với toàn bộ các ngân hàng (kể cả chưa niêm yết), tỷ lệ nợ xấu của ACB cũng ở mức thấp nhất toàn hệ thống.

Vietcombank là ngân hàng thứ hai niêm yết giữ được tỷ lệ nợ xấu dưới 1% và tỷ lệ nợ nhóm 2 cũng ở mức thấp 0,5%. Nhóm ở giữa có tỷ lệ nợ xấu dưới 2% là TPBank, MBBank, HDBank, VietinBank, BIDV, Techcombank, Eximbank.

Trong khi đó, một số các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu khá cao so với ngành gồm Sacombank (2,11%), NCB (2,12%) và SHB (2,4%). Tỷ lệ nợ xấu của Sacombank tuy vẫn cao, nhưng cải thiện đáng kể từ sau sáp nhập (tỷ lệ nợ xấu 2016 – 2017 là 6,91% và 4,67%).

Tại VPBank, tỷ lệ nợ xấu và nợ nhóm 2 đều cao. Ngân hàng này duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 3% suốt giai đoạn 2011-2016, đến 2017 tỷ lệ nợ xấu tăng lên 3,39%, và 2018 đạt 3,51%. Tuy nhiên, xét riêng ngân hàng mẹ, tỷ lệ nợ xấu ở mức 2,41%. Hai công ty con FECredit và AMC đóng góp 40% vào khối nợ xấu này, trong đó công ty con FE Credit đang dẫn đầu thị phần cho vay tiêu dùng.

Mức độ tập trung vào kỳ hạn: Vietcombank, VietinBank, BIDV, ACB, HDBank cho vay ngắn hạn quá bán

Thông thường dư nợ có kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng cao, do đó một ngân hàng tập trung cho vay ngắn hạn thường sẽ đưa đến chất lượng tín dụng cao hơn.

Nhóm ngân hàng BIDV, ACB, Vietinbank, HDBank, VCB có tỷ lệ nợ ngắn hạn chiếm trên 50% dư nợ, có khả năng mang lại rủi ro tín dụng thấp. Ngược lại những ngân hàng khác có tỷ lệ nợ ngắn hạn rất thấp, tập trung mạnh vào cho vay trung dài hạn, dễ mang lại rủi ro cao cho ngân hàng. Một số ngân hàng có tỷ trọng cho vay ngắn hạn dưới 40%, tốc độ quay vòng vốn sẽ thấp đi, tăng thêm rủi ro thanh khoản cho ngân hàng.

Ngoài ra, chất lượng tín dụng của một ngân hàng còn được thể hiện qua mức độ tập trung vào khách hàng lớn.

Nhìn lại tổng thể các chỉ tiêu, ACB và VCB là những ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt nhất ngành với tỷ lệ nợ xấu thấp nhất nhất ngành và khả năng chịu đựng rủi ro cao nhờ đã chuẩn bị sẵn kho dự trữ các năm trước. Nhóm TPB, MBB, HDB, CTG, BID có các chỉ tiêu hầu hết ở mức trung bình ngành.

Theo Thu Hoài/Thời báo Chứng Khoán