QC 1
Thứ 6, ngày 19/04/2024 | Hotline: 0889.066.066

Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng: Xu hướng Tây ra, Á vào

Cuối tháng 4 vừa qua, thông tin gây chấn động giới tài chính là việc Tập đoàn SMBC của Nhật Bản mua 49% cổ phần Công ty Tài chính tiêu dùng FE Credit của VPBank với giá 1,37 tỷ USD, tương đương mức định giá gần 2,8 tỷ USD, vượt xa mức vốn hóa của nhiều ngân hàng tầm trung ở trong nước.

Tập đoàn SMBC của Nhật Bản mua 49% cổ phần Công ty Tài chính tiêu dùng FE Credit của VPBank

Điểm nhấn

Thương vụ tỷ đô này được kỳ vọng sẽ là một dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển thị trường tài chính Việt Nam, khi các tổ chức tín dụng, nhất là các đơn vị lớn và hiệu quả được nhà đầu tư nước ngoài săn đón và sẵn sàng trả giá cao so với mặt bằng hiện nay.

Đây là diễn biến tích cực, trong bối cảnh Việt Nam chủ trương khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực ngân hàng, sự có mặt của các đối tác ngoại, với tiềm lực và kinh nghiệm toàn cầu, càng đóng vai trò ý nghĩa hơn để cải thiện và nâng cao tính cạnh tranh của các ngân hàng Việt.

SMBC là một trong 3 ngân hàng lớn nhất Nhật Bản, 2 cái tên còn lại, MUFG và Mizuho đã “chắc chân”, là cổ đông chiến lược, nắm giữ lần lượt 19,73% Vietinbank và 15% Vietcombank.

Năm 2019, KEB Hana Bank của Hàn Quốc cũng đã trở thành nhà đầu tư chiến lược, sở hữu 15% cổ phần BIDV. Ở một thương vụ quy mô khiêm tốn, Aozora của Nhật Bản năm ngoái cũng đã mua 11% cổ phần phát hành thêm của OCB để trở thành cổ đông chiến lược, trước khi nhà băng này niêm yết trên sàn HoSE đầu năm nay.

Một loạt thương vụ kể trên cho thấy một xu hướng rõ nét rằng thị trường tài chính Việt Nam đang rất hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư châu Á. Không chỉ đầu tư gián tiếp thông qua mua cổ phần chiến lược, nhiều ngân hàng châu Á cũng đã tìm kiếm cơ hội đầu tư ở Việt Nam thông qua việc mở chi nhánh hay thành lập ngân hàng 100% vốn.

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 31/12/2020 có 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn điều lệ khoảng hơn 41.200 tỷ đồng, gồm 4 ngân hàng thành lập mới từ năm 2016-2017 là Public Bank Việt Nam (Malaysia), CIMB Việt Nam (Malaysia), Woori Việt Nam (Hàn Quốc), UOB Việt Nam (Singapore). 5 ngân hàng còn lại đều được cấp phép từ năm 2008 là HSBC Việt Nam (Anh), Standard Chartered Việt Nam (Anh), ANZ Việt Nam (Australia), Shinhan Việt Nam (Hàn Quốc) và Hong Leong Việt Nam (Malaysia).

Các năm gần đây, khối ngân hàng nước ngoài châu Á có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Theo số liệu của Tạp chí Nhà đầu tư, Shinhan Bank trong năm 2020 với tốc độ tăng trưởng tài sản và lợi nhuận vượt trội đã vượt qua HSBC để trở thành ngân hàng ngoại quy mô và hiệu quả nhất Việt Nam. Tính đến ngày 31/12/2020, tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của Shinhan Bank đạt lần lượt là 131.418 tỷ đồng và 18.989 tỷ đồng; lãi sau thuế trong năm ngoái đã lên tới 2.443 tỷ đồng, cao nhất trong số 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài hiện nay.

Tính cho cả giai đoạn 2016 – 2020, nhà băng đến từ Hàn Quốc ghi nhận tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu 87%, tổng tài sản 129%, còn lợi nhuận sau thuế tăng gấp 2,36 lần. Các ngân hàng gốc Á khác cũng có tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng, giai đoạn 2016-2019, tổng tài sản của Public Bank tăng 105%, UOB Việt Nam tăng 53%, Hong Leong Bank tăng 39%, CIMB Việt Nam tăng 33%, Woori Việt Nam tăng 92%. Về lợi nhuận, UOB đạt lợi nhuận sau thuế năm 2019 là 264 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2018. Public Bank ghi nhận lợi nhuận 309 tỷ đồng năm 2019, cao gần gấp đôi so với ANZ dù tổng tài sản lại chỉ tương đương nhau.

Xu hướng Tây ra, Á vào

Ở diễn biến trái ngược, các ngân hàng phương tây lại có xu hướng rút dần, thu hẹp quy mô hoạt động ở Việt Nam. Gần đây nhất, Citigroup tháng 4/2021 công bố rút mảng khách hàng cá nhân khỏi Việt Nam. Trước đó cũng đã có những ngân hàng phương Tây rút khỏi mảng bán lẻ hay bán lại cổ phần như: BNP Paribas, Standard Chartered, Commonwealth, HSBC.

Đặc biệt trong giai đoạn 2016 – 2018, đã có hàng loạt những thương vụ thoái vốn của các ngân hàng phương Tây diễn ra. Đầu tiên là thương vụ VIB nhận chuyển nhượng toàn bộ hoạt động của Ngân hàng Commonwealth Bank of Australia (CBA) – Chi nhánh TP.HCM. Việc chuyển giao được hoàn tất trong quý 3/2017. Cuối tháng 4/2017, ANZ Việt Nam cũng bán toàn bộ mảng dịch vụ bán lẻ tại thị trường Việt Nam cho một đối tác Hàn Quốc là Shinhan Bank.

Đến tháng 6/2017, Techcombank cũng có thông báo về thoả thuận thoái toàn bộ 20% vốn của HSBC sau 12 năm gắn bó. Đầu năm 2018, Techcombank tiếp tục bán công ty tài chính tiêu dùng cho Lotte của Hàn Quốc. Cũng năm 2017, BNP Paribas đã thoái toàn bộ 74,7 triệu cổ phiếu, tương ứng 18,68% vốn của Tập đoàn này lại OCB sau 10 năm đầu tư.

Đầu năm 2018, Cổ đông lớn của Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) là Standard Chartered APR Limited và Standard Chartered Bank (Hong Kong) Limited đã bán tổng cộng 154 triệu cổ phiếu ACB và hoàn tất thoái vốn khỏi ngân hàng này sau một thập kỷ đồng hành. Tháng 3/2019, Tập đoàn Société Générale – một trong những tập đoàn tài chính lớn nhất châu Âu đến từ Pháp cũng rút khỏi SeABank.

Có nhiều nguyên nhân giải thích cho xu hướng dịch chuyển đầu tư này, chẳng hạn như nằm trong chiến lược tái cấu trúc, thoái vốn khỏi các khoản đầu tư thiếu hiệu quả của các các tập đoàn đa quốc gia sau khủng khoảng tài chính thế giới; hay dòng tiền đang chảy về các chính quốc, nơi có lãi suất rẻ hơn và nhiều cơ hội đầu tư an toàn hơn.

Diễn biến các ngân hàng phương Tây rút dần khá tương đồng với việc quỹ ngoại liên tục bán ròng trên thị trường chứng khoán Việt suốt 2 năm qua. Ở chiều ngược lại, các quỹ châu Á vẫn bày tỏ sự quan tâm đặc biệt với thị trường Việt Nam. Quỹ Fubon của Đài Loan đã và đang giải ngân khoản vốn lên tới 8.000 tỷ đồng vào các mã bluechip ở Việt Nam, góp phần giúp chỉ số VNIndex tăng trưởng thời gian qua. Cùng với đó, các quỹ đầu tư lâu năm, đã gắn bó với thị trường Việt Nam từ thời điểm sơ khai như VinaCapital hay Dragon Capital vẫn tiếp tục gia tăng giá trị đầu tư.

Theo các chuyên gia, một trong những lợi thế của các nước phát triển là nguồn vốn dồi dào và lãi suất thấp. Nên các định chế tài chính có xu hướng tìm kiếm khách hàng ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiệu quả hoạt động của một số ngân hàng phương Tây không như kỳ vọng. Mảng ngân hàng bán lẻ của nhóm này tỏ ra không hiệu quả. Một phần do ngân hàng ngoại trả lương rất cao, đẩy chi phí tiền lương gia tăng nhanh khi phát triển hệ thống bán lẻ, dẫn tới hiệu quả thấp.

Khi các ngân hàng phương Tây gặp khó thì các đối thủ trong khu vực châu Á lại cho thấy khả năng thích ứng và phát triển tốt hơn. Điều này được lý giải bằng sự tương đồng về văn hóa, khẩu vị rủi ro. Cùng với đó, tập khách hàng cá nhân của các ngân hàng đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan cũng phần nào đến từ mối quan hệ với những lao động xuất khẩu từ Việt Nam sang các nước đó, hay công dân ở các quốc gia này làm việc tại Việt Nam.

TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách, tiền tệ quốc gia cũng cho rằng, so với Mỹ – châu Âu, các nhà đầu tư châu Á có lợi thế hơn ở Việt Nam khi ít nhiều có sự đồng điệu về văn hoá, tín ngưỡng, dẫn tới mức độ am hiểu và thích nghi thị trường cao hơn. Các nhà đầu tư sẽ có xu hướng mua cổ phần tại những ngân hàng nhỏ hoặc công ty tài chính có nền tảng công nghệ yếu rồi đầu tư công nghệ để phát triển các dịch vụ ngân hàng số, ngân hàng bán lẻ, đặc biệt là thanh toán điện tử, cho vay tiêu dùng, tài chính vi mô, bảo hiểm… Và các đối tác quan tâm đến ngân hàng Việt chủ yếu đến từ Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Trung Quốc.

Theo Nguyễn Thoan/Vietnam Finance

Nguồn: https://vietnamfinance.vn/dau-tu-nuoc-ngoai-trong-linh-vuc-ngan-hang-xu-huong-tay-ra-a-vao-20180504224254626.htm