QC 1
Thứ 5, ngày 28/03/2024 | Hotline: 0889.066.066

PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh: ‘Lạm phát cả năm có thể sẽ ở mức 3,8% – 4,1%’

Theo số liệu của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2022 tăng 3,15% so với cùng kỳ năm 2021, lạm phát cơ bản tăng 2,59%. Đây là chỉ số CPI tương đối thấp trong điều kiện lạm phát ở nhiều quốc gia trên thế giới cao ở mức kỷ lục trong năm 2022. Áp lực lạm phát trong năm 2023 với nền kinh tế Việt Nam rất lớn, cần có các biện pháp quản lý phù hợp.

Lạm phát năm 2022 và dự báo năm 2023

Tình hình lạm phát năm 2022

Theo Tổng cục Thống kê (TCTK), chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2022 tăng 3,15% so với cùng kỳ năm 2021. Chỉ số lạm phát cơ bản bình quân năm 2022 tăng 2,59 % so với cùng kỳ năm 2021.

Chỉ số lạm phát các tháng năm 2022 (nguồn: GSO):

Chỉ tiêuTh. 1Th. 2Th.3Th. 4Th. 5Th. 6
1. CPI so với tháng trước0,19%1%0,7%0,18%0,38%0,69%
2. Lạm phát cơ bản0,66%0,48%0,81%0,97%1,1%1,25%.
3. CPI so với Tháng 12/20210,19%1,2%1,91%2,09%2,48%3,18%
4. CPI so với cùng kỳ 20211,94%1,42%2,41%2,64%2,86%3,37%
Chỉ tiêuTh. 7Th.8Th.9Th. 10Th. 11Th.12Bình quân Năm 2022
10,4%0,005%0,40,15%0,39%– 0,01% 
21,44%1,64%.1,88%.2,14%.2,38%2,59%2,59%
33,59%3,6%4,014,16%4,56%4,55% 
43,14%2,89%3,94%4,3%4,37%4,523,15%

Chỉ số CPI năm 2022 tăng bình quân 3,15% và lạm phát cơ bản tăng 2,59% chịu tác động bởi môt số nguyên nhân.

Trước hết, mặc dù một số nền kinh tế lớn trên thế giới từng bước phục hồi trong năm 2021, nhưng năm 2022 đã có sự giảm sút đáng kể do lạm phát tăng cao và giá cả xăng dầu, các vật tư nguyên liệu, lương thực, thực phẩm tăng cao.

Lạm phát của các quốc gia tăng cao do tác động của các gói hỗ trợ kích cầu trong đại dịch Covid-19 nên lạm phát của các nước trên thế giới tăng cao. Lạm phát của Mỹ trên 8,1% trong năm 2022 khi đạt mức cao nhất kể từ năm 1981 vào tháng 7 là 9,1%. Lạm phát của khu vực đồng tiền chung châu Âu cũng ở mức cao trên 8,5%, đánh dấu mức cao nhất kể từ năm 1988. Lạm phát ở Anh đã tăng lên 10,1% trong tháng Bảy, mức cao nhất kể từ năm 1982; BoE dự báo lạm phát có khả năng sẽ tăng lên 13% trước cuối năm nay do giá năng lượng tăng cao.

Đồng thời, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 tại ở Trung Quốc và việc thực hiện chính sách “Zero covid” đã làm cho sản xuất đình trệ và đứt gẫy nguồn cung vật tư, linh kiện phục vụ sản xuất của thế giới.

Thêm vào đó, cuộc xung đột Ucraine và chính sách trừng phạt kinh tế tăng dần của các nước phương Tây đối với Nga cùng sự trả đũa cũng rất mạnh mẽ của Nga đối với các nước phương Tây làm cho nguồn cung xăng dầu, gas và nhiều vật tư, nguyên liệu bị xáo trộn. Giá cả xăng dầu và nhiều loại vật tư nguyên nhiên vật liệu trên thế giới đã tăng cao, tác động mạnh đến lạm phát. Nhưng tình hình giá cả ở Việt Nam chưa bị tác động nhiều trong quý I, do sức cầu còn yếu bởi nhiều ngành dịch vụ chỉ được mở cửa từ 01/04/2022 nên CPI của một số tháng chưa tăng mạnh. Đồng thời, từ tháng cuối tháng 6/2022 giá xăng dầu và nhiều mặt hàng có chiều hướng giảm giá và duy trì đến cuối năm.

Thứ hai,các cân đối vĩ mô lớn của nền kinh tế (nợ công, nợ nước ngoài, thâm hụt ngân sách, cán cân thương mại, quan hệ cung – cầu ngoại tệ …) tiếp tục được kiểm soát và giữ ở trạng thái tốt hơn so với giai đoạn trước, dự trữ ngoại hối trên 110 tỷ USD, cùng với kinh nghiệm kiểm soát lạm phát thấp trong nhiều năm qua, đang tạo được niềm tin và sự ổn định nhất định của thị  trường tài chính – tiền tệ.

Thứ ba, hoạt động xuất nhập khẩu năm 2022 đạt  732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2021; Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 371,85 tỷ USD tăng 10,6%; hoạt động nhập khẩu ước đạt 360,65 tỷ USD, tăng 8,4% so với năm trước. Tính chung cả năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 11,2 tỷ USD. Điều này tạo điều kiện làm giảm áp lực tỷ giá và lạm phát.

Thứ tư, mặc dù vốn FDI đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 27,72  tỷ USD, giảm 11% so với năm 2021. Nhưng vốn FDI thực hiện tại Việt Nam năm 2022 đạt 22,4 tỷ USD, tăng 14% so với năm trước. Số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tăng cao đã giúp tăng nguồn cung ngoại tệ cho nền kinh tế, giảm sức ép tăng giá ngoại tệ.

Thứ năm, việc điều hành chính sách tiền tệ đã linh hoạt và chủ động hơn, lượng cung tiền vào nền kinh tế ở mức vừa phải, NHNN đã chủ động can thiệp để giữ giá VND, tăng lãi suất điều hành, nới rộng biên độ giao dịch VND, tỷ giá cơ bản ổn định, đồng Việt Nam chỉ mất giá 2,09% so với đô la Mỹ. VND ổn định và giảm giá nhẹ so với USD, nghĩa là VND tăng giá so với các đồng tiền khác. Đây là cơ sở để chỉ số lạm phát cơ bản thấp, giúp ổn định thị trường tài chính tiền tệ, đẩy mạnh xuất nhập khẩu và giúp cho CPI tăng thấp.

Chỉ số lạm phát cơ bản bình quân năm 2022 tăng 2,59 % so với cùng kỳ năm 2021.

Thứ sáu, do dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát, khiến người dân đẩy mạnh chi tiêu, theo đó giá vé tàu, vé ô tô, giá vé máy bay,  giá dịch vụ du lịch tăng mạnh trong tháng 5,6,7/2022. Việc tăng chi tiêu với chỉ số tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cuối cùng ước đạt 3.679,2 nghìn tỷ đồng, tăng 19,8% so với năm 2021 (năm 2021 giảm 6,7%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 15,6% (năm 2021 giảm 5,1%) cũng là nguyên nhân làm cho vòng quay của tiền tệ trong nền kinh tế tăng nhẹ, góp phần tạo áp lực tăng CPI.

Thứ bảy, một số mặt hàng lương thực, thực phẩm, rau quả trong nước giảm giá do được mùa và chuỗi cung ứng đã hồi phục sau khi mở cửa “sống chung” với dịch bệnh. Như giá thịt lợn, giá thịt gà, giá gạo, giá rau đều giảm. Tuy nhiên, trong tháng 6, 7 giá một số mặt hàng đã tăng cao trở lại gây áp lực lạm phát, tuy tháng 8 đã có một số mặt hàng có xu hướng giảm mạnh.

Thứ tám, đã có sự hỗ trợ kịp thời của các quyết sách của Quốc hội và Chính phủ khi ngay từ đầu năm, Bộ Tài chính đã đề nghị Chính phủ thực hiện miễn, giảm 39 loại phí, lệ phí, giãn hoãn tiến độ nộp thuế, tiền thuê đất cho các DN; Quốc hội quyết định giảm thuế VAT 2% cho các hàng hóa có thuế suất 10% từ 01/02/2022 và giảm kịch khung thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu từ 01/04 khi xăng dầu tăng giá mạnh nên đã góp phần hạ thấp giá cả của nhiều loại hàng hóa; sự vào cuộc nhanh chóng, kịp thời, đồng bộ và quyết liệt của các cơ quan quản lý giá cả và cơ quan quản lý thị trường, tránh các đợt tăng giá sốc vào một số thời điểm nhạy cảm.

Thứ chín, đã có sự phối hợp nhịp nhàng của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đẻ vừa cung cấp đủ vốn cho sản xuất, vừa kìm giữ lạm phát ở mức phù hợp. Trong năm, để kìm giữ tỷ giá ngoại tệ, đặc biệt tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam, NHNN bán ra một khối lượng khá lớn ngoại tệ và thực hiện hút ròng về hàng trăm ngàn tỷ đồng thông qua kênh tín phiếu trên thị trường mở, tăng lãi suất điều hành, nới biên độ giao dịch ngoại tệ. Đồng thời, để đảm bảo kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ, theo báo cáo mới nhất của Kho bạc Nhà nước, Bộ Tài chính đã lựa chọn thời điểm thích hợp để tăng tổng khối lượng huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ gần trăm ngàn tỷ đồng với kỳ hạn trái phiếu chính phủ. Việc tăng giá một số các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá trong năm 2022 cũng được thực hiện cẩn trọng để không gây biến động lớn đến mặt bằng giá cả trong nền kinh tế.

Dự báo lạm phát năm 2023

Năm 2023, nền kinh tế thế giới được dự báo sẽ có không ít khó khăn do một số quốc gia và khu vực kinh tế lớn trên thế giới có nguy cơ suy thoái.

Thứ nhất, lạm phát năm 2022 của thế giới tăng rất cao, lập đỉnh sau 40 năm ở Mỹ, Anh, Liên minh châu Âu (EU). Năm 2023 lạm phát của nền kinh tế thế giới dù có xu hướng hạ nhiệt nhưng được dự báo vẫn ở mức cao khoảng 6,5%, từ đó tác động rất lớn đến tới giá cả hàng hóa và tình hình lạm phát trong năm 2023 của Việt Nam. Bởi Việt Nam là quốc gia có độ mở cửa hội nhập sâu rộng và toàn diện với thế giới và có gần 40% nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nhập khẩu từ các quốc gia trên thế giới nên khả năng nhập khẩu lạm phát thông qua nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu đầu vào rất lớn.

Thứ hai, các ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã có hơn 340 lần tăng lãi suất điều hành. Đặc biệt là trong năm 2022 FED đã nâng lãi suất lên 5%-5,25%, do vậy, lãi suất trên thế giới tăng nhanh. Để đảm bảo tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư quốc tế, NHNN Việt Nam cũng đã 2 lần tăng lãi suất điều hành gây áp lực lên chi phí vốn, tạo sự trì trệ trong sản xuất và tăng áp lực lạm phát.

Thứ ba, do xung đột Ucraine tiếp tục kéo dài, Mỹ và phương Tây đẩy mạnh chính sách trừng phạt và áp trần giá dầu, trần giá khí đốt với Nga và việc Nga ngừng bán dầu, khí đốt với các quốc gia không thân thiện cùng với việc OPEC tiếp tục cắt giảm sản lượng có thể đẩy giá dầu và khí đốt và các nguyên vật liệu trong năm 2023 tăng cao. Hơn nữa, do việc các bao vây, cấm vận với Nga, nước Nga đã không cho phép các phương tiện giao thông của các nước không thân thiện đi qua lãnh thổ Nga, làm cho câc chuỗi cung ứng đứt gãy, chi phí vận tải, logicstic tăng cao và làm cho nguồn cung ứng gặp khó khăn, chi phí sản xuất cao. Do đó, tình hình sản xuất kinh doanh trong nước cũng gặp nhiều khó khăn trong phục hồi và tăng trưởng.

Thứ tư, do ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào và lạm phát, các tổ chức quốc tế dự báo năm 2023 nền kinh tế thế giới chỉ tăng trưởng khoảng 2,2%-2,5% (so với mức 3,1% của năm 2022). Lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ, buộc các chính phủ phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Lạm phát cùng với việc các Chính phủ cắt giảm các hỗ trợ tài chính liên quan đến đại dịch Covid-19 khiến các hộ gia đình siết chặt chi tiêu. Việc nhập khẩu và tiêu thụ hàng hóa giảm sút sẽ tạo áp lực lớn đến các DN sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu khó khăn, lượng ngoại tệ thu về giảm sút sẽ tạo áp lực lên tỷ giá và lạm phát.

Thứ năm, việc Chính phủ Trung Quốc dần dỡ bỏ lệnh phong tỏa để phòng chống đại dịch Covid-19 có thể làm sản xuất tăng trưởng, tăng sức ép về giá cả xăng dầu, nguyên liệu đàu vào cho sản xuất của thế giới và gia tăng áp lực lạm phát.

Thứ sáu, trong năm 2022 chỉ số VNIndex của thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự giảm sút mạnh, giảm 33,68% so với cuối năm 2021; thị trường trái phiếu DN phát hành riêng lẻ cũng sụt giảm hơn 28,5% so với cùng kỳ 2021 đang gây khó khăn cho nguồn cung vốn cho sản xuất và tạo áp lực tăng lãi suất vay nợ, tăng áp lực lạm phát.

Thứ bảy, năm 2023 tác động của lạm phát của Việt Nam sẽ bộc lộ rõ hơn do tác động vòng 2, vòng 3 bởi độ trễ của lượng tiền tệ được đưa vào thị trường trong các năm trước. Lạm phát các tháng cuối năm 2022 so với tháng 12/2021 và cùng kỳ năm 2021 tăng cao đến 4,55% và 4,52% đang cho thấy khả năng lạm phát tăng cao trong năm 2023.

Tuy nhiên, có một số nhân tố có thể giảm áp lực năm 2023 của nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, nền kinh tế Việt Nam đã thích ứng với trạng thái vừa chung sống với dịch bệnh, vừa đẩy mạnh sản xuất, đã phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022 và sẽ tiếp tục thích ứng với các biến động kinh tế, xã hội trong năm 2023. Thứ hai, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các NHTM trong thời gian qua có xu hướng tăng cao. Để hỗ trợ các DN trong nền kinh tế hồi phục và phát triển, NHNN đã có biện pháp cung ứng vốn giá rẻ với thời gian tương đối dài cho các NHTM, cùng với các yêu cầu để các NHTM cắt giảm chi phí nhằm ổn định và hạ thấp mặt bằng lãi suất của nền kinh tế.

Thứ ba, trong năm 2022, Việt Nam đã hoàn thiện cơ chế chính sách và cơ cấu bộ máy của thị trường chứng khoán và các quy định pháp lý cho hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ và phát hành trái phiếu DN ra thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu cung cấp vốn vay trung và dài hạn. Theo đó, ngày 11/12/2021, Bộ Tài chính đã tổ chức Lễ ra mắt Sở Giao dịch Chứng khoán (GDCK) Việt Nam theo Quyết định số 37/2020/QĐ-TTg ngày 23/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) – tổ chức được thành lập trên cơ sở Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam theo Quyết định số 26/2022/QĐ-TTg ngày 16/12/2022 – đã chính thức đi vào hoạt động. Đồng thời, Bộ Tài chính được giao việc xem xét, sửa đổi Nghị định 65/2022/ NĐ-CP vừa ban hành ngày 16/09/2022 cho phù hợp với thực tiễn. Đây sẽ là cơ sở đê giúp các DN huy động vốn trên thị trường, giảm áp lực tăng lạm phát.

Thứ tư, việc Chính phủ Trung Quốc dần dỡ bỏ lệnh phong tỏa để phòng chống đại dịch Covid-19 có thể làm sản xuất tăng trưởng (Bloomberg Economics dự báo, kinh tế Trung Quốc có thể tăng trưởng 5,7% trong năm 2023), thúc đẩy mở rộng nguồn cung các nguyên vật liệu, linh phụ kiện đầu vào với giá cả hợp lý cho nền sản xuất. Đồng thời, thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa, các linh phụ kiện của các doanh nghiệp Việt Nam với chi phí vận chuyển, logicstic ở mức thấp. Điều này sẽ góp phần giảm thấp áp lực lạm phát.

Thứ năm, do tỷ giá VND ổn định so với USD, các cân đối vĩ mô ổn định, nền kinh tế tăng trưởng cao, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện sẽ là điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài tăng cường đầu tư vào Việt Nam. Vốn FDI tăng sẽ giảm áp lực tăng tỷ giá và áp lực lạm phát của VND. Thứ sáu, Việt Nam là quốc gia đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới trong thời gian qua. Việc Bộ Công thương thường xuyên có các cuộc gặp gỡ với các Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại các nước và thực hiện kết nối các DN xuất – nhập khẩu với thị trường các nước đang góp phần mở rộng thị trường xuất – nhập khẩu cho các ngành sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ giúp các DN giảm chi phí, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu.

Dự báo trong năm 2023 nếu tình hình kinh tế-xã hội của thế giới vẫn diễn biến phức tạp, lạm phát vẫn cao, giá xăng dầu, nguyên vật liệu tăng cao, kinh tế thế giới trì trệ hay suy thoái, tăng trưởng chậm, thương mại quốc tế giảm sút, kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng ở mức 6,2% – 6,7% thì khả năng lạm phát cả năm sẽ trong khoảng 3,3% – 3,7%.        

Nếu tình hình kinh tế-xã hội của thế giới được cải thiện hoặc ổn định, giá xăng dầu, nguyên vật liệu ổn định, kinh tế thế giới phục hồi tốt, doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội, nắm bắt và thích ứng  với các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết và những thay đổi lớn trong nền kinh tế thế giới, Quốc hội và Chính phủ có các biện pháp chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt và thích hợp, tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt mức 6,8% – 7,5% thì khả năng lạm phát cả năm có thể sẽ ở mức là 3,8% – 4,1%.

Theo PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh/Vietnam Finance

Nguồn: https://vietnamfinance.vn/pgsts-dinh-trong-thinh-lam-phat-ca-nam-co-the-se-o-muc-38-41-20180504224280078.htm