QC 1
Chủ nhật, ngày 19/05/2024 | Hotline: 0889.066.066

Cổ phiếu ngành điện có còn hấp dẫn?

Do giá điện huy động vẫn đang duy trì ở mức cao so với nền giá năm 2021, nên nhìn chung các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất điện vẫn được kỳ vọng mang lại kết quả kinh doanh lạc quan trong 2 quý còn lại của năm 2022.

Điện than đang chịu nhiều tổn thương nhất

Nhìn vào thống kê tăng trưởng của một số doanh nghiệp điện trong quý II, bên cạnh xu hướng tích cực của các doanh nghiệp thủy điện thì một điều đáng chú ý là sự phân hóa kết quả kinh doanh giữa điện than và điện khí.

Mặc dù được đánh giá là cùng chịu ảnh hưởng từ việc giá nguyên liệu đầu vào tăng, nhưng các doanh nghiệp điện khí vẫn có mức tăng trưởng đột biến so với cùng kỳ, trái ngược hoàn toàn với các doanh nghiệp điện than. Tiêu biểu có thể kể đến như Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 (NT2 – HOSE) với kết quả kinh doanh quý II ấn tượng khi lợi nhuận gấp gần 15 lần so với cùng kỳ.

Tăng trưởng lãi trong quý II của doanh nghiệp sản xuất điện theo loại hình

Nguồn: Wichart.vn

Trong khi đó, ngành điện than Việt Nam trong quý II/2022 chỉ đạt một mức tăng tương đối khiêm tốn so với các doanh nghiệp khác trong ngành sản xuất điện (từ 35 – 50% so với cùng kỳ), thậm chí, Nhiệt điện Phả Lại (PPC – HOSE) còn tăng trưởng âm 27,8% vì máy phát điện S6 chưa thể đi vào vận hành trở lại.

Nguyên nhân trọng yếu dẫn đến sự chênh lệch về tăng trưởng của hai loại hình này là do kết quả kinh doanh cùng kỳ năm 2021 của điện khí cực kỳ thấp điểm, giữa lúc giá khí đầu vào trung bình tăng cao, còn phân bổ giá mua (PPA) đầu ra lại giảm. Điều này tạo cho các doanh nghiệp điện khí như NT2, Nhiệt điện Bà Rịa (BTP – HOSE) một mức nền so sánh cùng kỳ thấp hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp điện than.

Lũy kế sản lượng 6 tháng đầu năm của nhiệt điện theo hình 2021 – 2022.

Nguồn: EVN, Wichart.vn

Hơn nữa, có thể thấy rằng, điện than đang là loại hình sản xuất chịu nhiều tổn thương nhất khi thủy điện hoạt động mạnh trở lại. Cụ thể, sản lượng điện than đã sụt giảm 17% so với cùng kỳ. Trong khi, mức sụt giảm sản lượng này đối với điện khí chỉ khoảng 3,2%, tại vì các nhà máy có vị trí nằm tại các khu vực trọng điểm kinh tế phía Nam, nên luôn được ưu tiên huy động do nhu cầu tiêu thụ lớn.

Còn về yếu tố giá nguyên liệu đầu vào tăng, người viết cho rằng, hiện không có quá nhiều tác động đến khối nhiệt điện vì giá than trong nước cung cấp cho các nhà máy điện khá ổn định nhờ hợp đồng dài hạn với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng Sản Việt Nam (TKV), còn đối với các doanh nghiệp điện khí, các đơn vị này đang được hỗ trợ bởi cơ chế giá đầu ra và tăng sản lượng Qc.

2 tác động ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp điện

Lượng mưa lớn vào tháng 5 và tháng 6 đã làm tăng sản lượng điện huy động từ thủy điện, trung bình 50% công suất vào các thời gian cao điểm trưa và kịch khung là mức hơn 90% công suất vào cao điểm tối, vì đây là thời điểm các nhà máy điện mặt trời không còn hoạt động.

Cơ cấu nguồn điện huy động quý II/2022

Nguồn: EVN, Wichart.vn

Chính yếu tố này đã gây ra 2 tác động lớn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp điện: Làm giảm sản lượng huy động từ nhóm nhiệt điện, nhờ lợi thế cạnh tranh về giá của thủy điện; và kéo giá điện huy động trên thị trường cạnh tranh tụt dốc sau đà tăng mạnh trước đó.

Cụ thể, cơ cấu nguồn điện huy động trong quý II/2022 đã có sự thay đổi mạnh. Sản lượng huy động từ thủy điện đã tăng 152% so với quý đầu năm, qua đó, nâng tỷ trọng đóng góp trong cơ cấu huy động từ 26,2% (quý I) lên mức 35,7%. Điều này đã góp phần kéo tăng trưởng của nhóm doanh nghiệp thủy điện lên cao và tác động tiêu cực đến sản lượng đầu ra của các nguồn huy động điện khác, trong đó có thể kể đến điện than.

Song song với đó, việc thủy điện được tăng sản lượng huy động cũng đã khiến cho giá thu mua điện trên thị trường điện cạnh tranh mất đi đà tăng trước đó, rơi từ mức đỉnh 1.800 đồng/kwh (tháng 4) xuống còn quanh 1.200 đồng/kwh, do giá huy động từ thủy điện thấp. Tuy nhiên, mức giá điện giao dịch trung bình của cả quý II/2022 vẫn cao hơn 30% so với cùng kỳ – điều kiện tuyệt vời cho tăng trưởng của nhóm sản xuất điện.

Triển vọng lạc quan ngành điện nửa cuối năm

Theo dự báo của Tổng cục Khí tượng thủy văn, ENSO có khả năng tiếp tục duy trì ở trạng thái La Nina từ nay đến hết năm 2022 với xác suất khoảng 55 – 65%. Theo đó, lượng mưa cơ bản tại khu vực Bắc bộ được dự báo cao hơn trung bình năm ngoái từ 10 – 25% với xác suất hơn 60%. Các khu vực Trung bộ, Nam bộ và Tây Nguyên cũng có lượng mưa cao, đặc biệt tại một số khu vực như Trung Trung bộ và Nam Trung bộ có thể cao hơn 15 – 35% so với cùng kỳ với xác suất xảy ra từ 70 – 90%

Như vậy, nếu kịch bản này xảy ra, các nhà máy thủy điện nhiều khả năng sẽ tiếp tục được hưởng lợi trong giai đoạn cuối năm, khi nguồn nước tiếp tục dồi dào hơn, đặc biệt là các nhà máy thủy điện tại miền Trung, có thể kể đến như Thủy điện Vĩnh Sơn Sông Hinh (VSH – HOSE), Thủy điện miền Trung (CHP – HOSE)…

Song song với đó, những tháng cuối năm cũng là thời điểm hoạt động mạnh trở lại của 4,4 GW điện gió khi mùa quay trở lại (thường bắt đầu từ tháng 11). Áp lực từ nguồn cung dồi dào của hai nguồn này là rủi ro lớn đối với tăng trưởng của nhóm nhiệt điện (điện than + điện khí) vào nửa cuối năm. Dù vậy, do giá điện huy động vẫn đang duy trì ở mức cao so với nền giá năm 2021, nên nhìn chung các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất điện vẫn được kỳ vọng mang lại kết quả kinh doanh lạc quan trong 2 quý còn lại của năm 2022.

Cũng đưa ra nhận định về ngành điện, Chứng khoán Agribank (Agriseco) nhận định toàn ngành điện sẽ đạt được tăng trưởng tốt trong năm nay dựa trên mức nền tăng trưởng thấp của năm 2021 và theo đà hồi phục của nền kinh tế.

Theo thống kê, trong điều kiện bình thường không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, phụ tải điện có hệ số tăng trưởng thường trên 1,5 đến 1,8 lần tăng trưởng GDP. Theo đó, nhóm thủy điện sẽ được hưởng lợi trong phần còn lại của năm 2022 nhờ vào 2 yếu tố.

Một là, sản lượng huy động từ nguồn điện tái tạo mới (điện mặt trời và điện gió) biến động mạnh trong ngày và giữa các ngày trong tháng, đồng thời duy trì ở mức thấp trong các tháng đầu năm. Trong khi điện mặt trời đã cho thấy thời gian phát điện hiệu quả chỉ khoảng 4 – 5 giờ/ngày, điện gió vẫn cần theo dõi khả năng phát điện theo mùa gió để đánh giá hiệu quả. Như vậy, có thể cho rằng thủy điện vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng là nguồn năng lượng nền tảng trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia bởi tính ổn định cao.

Hai là, rủi ro thiếu hụt than và giá nguyên liệu đầu vào tăng cao ảnh hưởng đến nhóm nhiệt điện. Rủi ro thiếu than trong các tháng tới đã khiến các nhà máy phải chủ động tìm kiếm nguồn than nhập khẩu để bổ sung sản lượng thiếu hụt. Tuy nhiên, do giá than bị giới hạn bởi EVN, các doanh nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn trong việc thỏa thuận giá với nhà cung cấp nước ngoài để đảm bảo biên lợi nhuận cho các nhà máy.

Tuy nhiên, theo Trung tâm Khí tượng thủy văn quốc gia dự báo, hiện tượng La Nina duy trì đến tháng 5/2022 với xác suất khoảng 65 – 70%, sau đó sẽ chuyển dần sang trạng thái trung tính từ khoảng nửa cuối năm 2022. Đây có thể là yếu tố ảnh hưởng không tích cực cho kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp thủy điện trong nửa cuối năm nay.

Trong khi đó, Chứng khoán VNDirect tin rằng, mức tăng trưởng của ngành điện nói chung sẽ cao hơn trong nửa cuối năm 2022 nhờ mùa nóng và nhu cầu phụ tải tăng mạnh trở lại.

VnDirect đánh giá việc thiếu than chỉ là rủi ro ngắn hạn, do đó sản lượng điện than cũng sẽ hưởng lợi từ nhu cầu phục hồi và giá bán trung bình cao hơn trên thị trường phát điện cạnh tranh.

Công ty chứng khoán này cũng kỳ vọng vào một năm tiếp tục tích cực của thủy điện nhờ LaNina sẽ kéo dài đến hết năm 2022. Tuy nhiên, VNDirect lưu ý một số rủi ro giảm giá đến ngành điện như tiêu thụ điện phục hồi chậm hơn dự đoán, tình trạng giá nhiên liệu đầu vào áp lực lên các nhà máy nhiệt điện và điều kiện thời tiết thủy điện có thể thay đổi trong dự báo tiếp theo.

Theo Khánh Vân/Kinh tế Chứng khoán Việt Nam

Nguồn: https://kinhtechungkhoan.vn/co-phieu-nganh-dien-co-con-hap-dan-144373.html